Dòng Sông Kỳ Bí

Chương 22: Cá săn mồi



“Sếp cho kéo xe của cậu ta đi?” Sean hỏi.

“Xe của hắn ta bị bên giao thông kéo đi. Hai chuyện này hoàn toàn khác nhau.”

Hai người bọn họ vừa thoát khỏi cơn tắc đường buổi sáng vào giờ cao điểm sau khi rẽ ra khỏi đường cao tốc về hướng East Buckingham. “Vì lý do gì?”

“Nó bị bỏ rơi,” Whitey rẽ sang phố Roseclair, miệng khẽ huýt sáo.

“Ở đâu? Ở trước cửa nhà cậu ta chứ gì?”

“Ồ, không. Chiếc xe được tìm thấy ở khu Rome Basin dọc theo đại lộ. May cho chúng ta là đại lộ này lại thuộc địa bàn của cảnh sát bang. Có vẻ như ai đó cướp xe, đi một đoạn rồi bỏ lại. Những chuyện như thế vẫn thường xảy ra, cậu biết đấy.”

Sáng nay Sean tỉnh dậy sau một giấc mơ trong đó anh ôm lấy con gái của mình và gọi tên nó dù anh không biết tên của con bé là gì và cũng không nhớ được mình đã nói gì trong con mơ nên đầu óc anh lúc này vẫn còn chút mờ mịt.

“Có tìm thấy vết máu,” Whitey nói.

“Ở đâu?”

“Trên ghế trước xe của Boyle.”

“Nhiều không?”

Whitey chụm đầu ngón cái và ngón trỏ lại chỉ để hở ra chút xíu. “Một chút. Nhưng tìm thấy nhiều vết máu hơn trong cốp xe.”

“Trong cốp xe?”

“Phải nói là có khá nhiều vết máu trong cốp xe.”

“Rồi sao nữa?”

“Thì phòng thí nghiệm đang phân tích.”

“Không. Ý tôi nói là nếu có tìm thấy máu trong cốp xe thì sao? Katie Marcus không hề bị nhét vào trong cốp xe.”

“Đúng là một con sâu làm rầu nồi canh.”

“Trung sĩ, chắc cấp trên không phê chuẩn cho ông khám xét chiếc xe đó đâu.”

“Phê chứ.”

“Phê ư?”

“Chiếc xe bị đánh cắp rồi bỏ rơi trong địa bàn cảnh sát bang. Chúng ta làm thế hoàn toàn chỉ phục vụ cho việc xác định mức bảo hiểm và quyền lợi của chủ nhân…”

“Sếp đã khám xét và viết xong báo cáo rồi chứ gì.”

“Cậu nhanh trí đấy.”

Họ tới trước cửa nhà Dave Boyle và Whitey sang số để đậu xe lại. Ông tắt máy rồi bảo, “Tôi có đủ nghi vấn để triệu tập cậu ta trò chuyện một chút. Hiện giờ tôi cũng chỉ muốn có vậy.”

Sean gật đầu, biết rằng tranh luận nữa cũng vô ích. Whitey lên tới vị trí này trong đội điều tra án mạng là nhờ bám chặt vào linh cảm nghề nghiệp, giống như con chó không chịu rời khúc xương. Không thể nào thuyết phục ông rời khỏi nhũng linh cảm đó, chỉ có cách chứng minh nó mà thôi.

“Thế kết quả phân tích đầu đạn thì sao?”

“Cũng rất lạ,” Whitey nói, không có dấu hiệu muốn rời khỏi xe, hai người bọn họ vẫn ngồi yên ở đó quan sát ngôi nhà của Dave. “Đó là một khẩu Smith ba tám li đúng như chúng ta dự đoán. Thuộc một lô hàng bị cướp từ một tay buôn vũ khí ở New Hampshire vào năm 1981. Khẩu súng giết chết Katherine Marcus cũng từng tham gia một vụ cướp cửa hàng rượu vào năm 1982. Chính tại khu Buckingham này.”

“Ở khu Hạ?”

Whitey lắc đầu. “Ở Rome Basin, tại một cửa hàng rượu tên là Looney Liquors. Có hai kẻ tham gia, cả hai đều đeo mặt nạ cao su. Chúng tiến vào cửa hậu sau khi chủ cửa hàng đóng các cửa đằng trước. Tên thứ nhất bước vào cửa hàng bắn một phát cảnh cáo xuyên qua một chai whisky và găm vào tường. Phần tiếp theo của vụ cướp diễn ra một cách suôn sẻ nhưng cảnh sát đã tìm thấy đầu đạn kia. Kết quả cho thấy nó xuất phát từ cùng khẩu súng đã giết hại cô con gái nhà Marcus.”

“Nó khiến vụ án được lái sang một hướng khác, sếp không thấy vậy sao?”‘ Sean hỏi. “Vào năm 1982, Dave lúc đó mười bảy tuổi, vừa mới gia nhập Raytheon. Tôi không nghĩ cậu ta lại làm thêm việc cướp cửa hàng rượu.”

“Không có nghĩa là khẩu súng không thể đến được tay của cậu ta. Cậu biết thừa cái của đó được truyền qua truyền lại thế nào rồi đấy.” Nghe giọng Whitey không có được cái vẻ chắc chắn như tối hôm trước. “Đi triệu cổ hắn thôi!” Ông ta nói rồi đẩy cửa xe ra.

Sean cũng ra khỏi xe và hai người bọn họ đi tới trước nhà Dave, Whitey không ngừng đập tay vào chiếc còng số tám đeo bên hông như đang chờ đợi cơ hội được sử dụng nó.

Jimmy đỗ xe rồi bê một khay giấy đựng mấy ly cà phê và một túi bánh rán tẩm đường băng qua mặt đường nham nhở của bãi đỗ xe về phía dòng sông Kỳ Bí. Trên đầu hắn là cầu Tobin, xe cộ qua lại rầm rập trên những nhịp cầu nối bằng kim loại và dưới mép nước Katie đang quỳ, cùng với Ray Harris, cả hai nhìn chằm chằm xuống con sông. Dave Boyle cũng có mặt ở đó, bàn tay bị thương của cậu ta sưng phồng như một cái găng đấm bốc. Dave ngồi trên một chiếc ghế vải cũ bên cạnh Celeste và Annabeth. Celeste mặc áo len kéo cổ che kín tới miệng còn Annabeth thì hút hai điếu thuốc một lúc. Cả ba người bọn họ đều đeo kính đen và không thèm nhìn Jimmy. Họ nhìn chằm chằm về phía gầm cầu vẻ không muốn bị quấy nhiễu.

Jimmy đặt khay cà phê và túi bánh xuống bên cạnh Katie và quỳ giữa cô bé và Just Ray. Hắn nhìn xuống nước và thấy hình phản chiếu của mình, của Katie và cả Ray khi họ quay về phía hắn, Ray với một con cá lớn màu đỏ ngậm chặt giữa hai hàm răng, đuôi vẫn còn đang quẫy.

“Con đánh rơi một cái váy xuống sông.” Katie nói.

“Bố chả nhìn thấy nó đâu cả,” Jimmy trả lời.

Con cá nhảy ra khỏi miệng Just Ray, rơi xuống mặt nước và quẫy đuôi bơi đi.

“Nó sẽ tìm được chiếc váy của con. Vì nó là một con cá săn mồi.”

“Thịt nó giống như thịt gà,” Ray nói.

Jimmy cảm thấy bàn tay ấm áp của Katie trên cổ hắn và tay của Ray trên gáy hắn, rồi Katie bảo, “Sao bố không xuống tìm váy cho con?”

Và rồi hai ngưòi bọn họ đẩy hắn xuống sông. Jimmy nhìn thấy làn nước đen ngòm cùng con cá quẫy đuôi nhô lên nhìn hắn và hắn biết là mình sắp chết đuối. Hắn mở miệng định kêu cứu thì con cá nhảy phốc vào trong miệng hắn, cắt mất nguồn dưỡng khí và mặt hắn chìm dần vào trong làn nước đen thẫm như mực.

Hắn chợt mở mắt, quay đầu ra nhìn chiếc đồng hồ báo thức chỉ bảy giờ mười lăm và không tài nào nhớ ra nổi đã đi ngủ vào lúc nào. Thế nhưng rõ ràng là hắn đã lên giường vì Annabeth đang nằm ngủ ở bên cạnh hắn. Jimmy tỉnh dậy đối mặt với một ngày mới bắt đầu bằng cuộc hẹn chọn bia mộ cho Katie trong vòng một tiếng đồng hồ tới và Just Ray Harris cùng dòng sông Kỳ Bí đã quay trở lại tìm hắn.

Chìa khóa thành công của một cuộc thẩm vấn là tranh thủ được tối đa thời gian trước khi kẻ tình nghi yêu cầu gặp luật sư bào chữa. Các đối tượng sừng sỏ như bọn buôn ma túy, xã hội đen, dân đua xe hay những tên côn đồ rắn mặt cứ mở miệng ra là đòi có luật sư. Chỉ có thể dọa nạt chúng một lúc, cố gắng làm chúng dao động trước khi luật sư xuất hiện, còn lại phải dựa vào các bằng chứng để buộc tội là chính. Sean hiếm khi thu được kết quả khi thẩm vấn một trong những gã đó.

Thế nhưng khi đối tượng là những công dân bình thường hay những người phạm tội lần đầu thì phần lớn vụ án đều được phá trong quá trình xét hỏi. Vụ “án mạng trên đường cao tốc”, thành công lớn nhất của Sean từ trước tới giờ, cũng đã được phá như vậy. Một anh chàng ở Middlesex trên đường lái xe về nhà buổi tối với vận tốc một trăm hai mươi cây số một giờ thì rớt mất chiếc lốp phía đằng trước. Chiếc lốp phải bung ra, lăn trên đường cao tốc. Chiếc xe thể thao đa dụng của anh ta lăn chín mười vòng trên đường và nạn nhân Edwin Hurka chết ngay tại chỗ.

Hóa ra ốc vít của hai bánh trước đều bị vặn lỏng từ trước. Cảnh sát bắt đầu tập trung vào kịch bản ngộ sát với nhiều khả năng là do thiếu sót của thợ cơ khí. Sean và đồng sự của anh, Adolph, lại phát hiện ra rằng nạn nhân vừa thay lốp vài tuần trước. Nhưng Sean cũng tìm thấy trong hộp đựng găng của nạn nhân một mẩu giấy khiến anh nghi ngờ. Mẩu giấy có ghi lại một số đăng ký biển số xe nguệch ngoạc và khi Sean nhập vào hệ thống dữ liệu tìm ra tên của chủ nhân nó là Alan Barnes. Anh tới nhà tay Barnes đó và hỏi gã ra mở cửa có phải hắn chính là Alan Barnes không. Gã này trả lời, đúng, có chuyện gì với dáng điệu vô cùng hốt hoảng. Trực giác của Sean mách bảo, anh hỏi hắn, “Tôi muốn nói với anh về chuyện mấy cái đinh vít.”

Tên Barnes đó lập tức cung khai ngay trên ngưỡng cửa nhà mình, nói với Sean rằng hắn chỉ định phá hoại, dọa nạn nhân một chút vì hồi tuần trước hai người bọn họ có đụng nhau trên đường ra sân bay khiến Barnes bực mình tới mức hủy cả cuộc hẹn của mình rồi lẳng lặng đi theo Edwin Hurka về nhà, chờ nạn nhân tắt hết đèn đi ngủ rồi tháo lỏng ốc vít trên lốp xe của nạn nhân.

Con người thật là ngu ngốc. Họ giết hại lẫn nhau vì những điều ngớ ngẩn nhất rồi vẫn cứ ở nguyên chỗ cũ chờ ngưòi ta tới bắt, sau đó ra tòa kêu vô tội trong khi đã ký biên bản thú nhận dài bốn trang với cảnh sát. Vũ khí lợi hại nhất của cảnh sát chính là nắm được sự ngờ nghệch của họ. Để họ nói. Luôn để cho họ nói. Để cho họ giải thích. Để cho họ trút tội ra trong khi uống cà phê bên cạnh chiếc máy ghi âm không ngừng hoạt động.

Và rồi khi họ đòi luật sư – một công dân bình thường thế nào cũng đòi luật sư – thì phải cau mày và hỏi đi hỏi lại xem họ có thực sự muốn gọi luật sư không, đồng thời tạo ra một không khí thù địch trong phòng cho tới khi họ quyết định trò chuyện cởi mở thêm một chút với cảnh sát giống như giữa những người bạn trước khi luật sư xuất hiện và phá hỏng bầu không khí đó.

Nhưng Dave không hề đòi gặp luật sư lấy một lần. Cậu ta ngồi trên một chiếc ghế khập khiễng nếu tựa quá sâu về phía sau. Trông cậu ta vẫn còn phảng phất dư âm của việc uống quá nhiều, bực bội, hơi cau có, đặc biệt là với Sean nhưng không hề tỏ ra sợ hãi hay hốt hoảng và Sean biết rằng thái độ đó bắt đầu khiến Whitey chột dạ.

“Ông Boyle, nghe này,” Whitey cất lời. “Chúng tôi biết ông rời quán McGills trước thời điểm mà ông nói với chúng tôi. Chúng tôi biết là ông có xuất hiện ở bãi đỗ xe của quán Last Drop khoảng nửa tiếng sau đó vào khoảng thời gian mà cô Marcus rời khỏi. Và chúng tôi dám chắc rằng tay ông bị sưng không phải vì chơi bi-a.”

Dave rên lên một tiếng rồi bảo, “Tôi có thể dùng một lon Sprite hay gì đó được không?”

“Sẽ có ngay, nhưng hãy nói cho chúng tôi biết chuyện gì đã thực sự xảy ra tối hôm đó, ông Boyle.” Whitey lần thứ tư nhắc lại câu này kể từ khi bọn họ xuất hiện ở đây khoảng ba mươi phút trước.

“Tôi đã nói với các ông rồi.”

“Ông nói dối.”

Dave nhún vai. “Đấy là ý kiến của riêng ông thôi.”

“Không đúng. Đó là thực tế. Ông đã nói dối về thời điểm rời khỏi quán McGills. Chiếc đồng hồ treo tường ở đó đã dừng lại năm phút trước khi ông nói là ông ra khỏi quán.”

“Những năm phút?”

“Ông cho rằng chuyện này rất buồn cười sao?”

Dave lại tụt vào ghế sâu thêm một chút nữa và Sean chờ nghe thấy tiếng ghế kêu cót két trước khi oằn xuống nhưng không có gì xảy ra, Dave đã dừng lại đúng lúc.

“Không, trung sĩ. Tôi không nghĩ vậy. Tôi chỉ là rất mệt mỏi. Vẫn còn ngầy ngật vì tối qua uống quá nhiều. Xe không những bị mất mà giờ ông còn bảo sẽ không trả lại. Ông nói tôi đã rời quán McGills năm phút sớm hơn so với lời tôi nói?”

“Ít nhất là thế.”

“Thôi được rồi. Cứ cho là thế đi. Có thể tôi đã nói không chính xác. Vì tôi không thường xuyên nhìn đồng hồ như các ông. Vậy nếu ông cho rằng tôi rời quán McGills vào lúc một giờ kém năm chứ không phải một giờ kém mười thì cứ chấp nhận vậy đi. Có thể đúng là thế thật. Nhằm nhò gì đâu. Nhưng vấn đề là sau đó tôi về nhà ngay lập tức. Tôi không tới quán bar nào khác.”

“Có người nhìn thấy ông trong bãi đỗ xe của…”

“Không đúng,” Dave nói. “Chỉ là ai đó nhìn thấy một chiếc xe Honda bị móp ở khung lốp trước. Đúng không? Ông có biết trong thành phố này có bao nhiêu chiếc Honda không? Suy nghĩ tí đi.”

“Liệu có được bao nhiêu chiếc bị móp ở cùng một vị trí so với xe của ông, ông Boyle?”

Dave nhún vai. “Tôi cược là có hàng đống.”

Whitey nhìn Sean và Sean có cảm giác là họ đã thua trong cuộc đấu trí này. Dave có lý, họ có thể dễ dàng tìm thấy hai chục chiếc Honda bị móp ở khung lốp trước phía bên chỗ ngồi dành cho khách. Ít nhất là hai mươi cái. Dave mà lấy cớ này bắt bẻ họ thì luật sư của cậu ta hẳn còn tìm ra một con số lớn hơn.

Whitey đi vòng ra đằng sau ghế của Dave và bảo, “Hãy cho chúng tôi biết làm thế nào mà trong xe của ông lại có vết máu?”

“Máu nào cơ?”

“Chúng tôi tìm thấy vết máu ở ghế trước. Hãy bắt đầu từ đó đi.”

“Thế chai Sprite của tôi thì sao, Sean?” Dave hỏi.

“Được thôi.”

“Biết ngay mà. Cậu đúng là một cảnh sát tốt. Nhân tiện lấy cho tôi luôn một miếng bánh kẹp thịt được không?”

Sean đang nhoài người toan đứng dậy nghe thấy thế lại ngồi xuống. “Tôi không phải tay sai của cậu. Cậu cứ ngồi đó chịu khó chờ thêm một lúc nữa đi.”

“Nhưng cậu thì đúng là tay sai của người ta đấy. Không phải vậy sao, Sean?” Khi nói những từ này trong mắt Dave lóe lên một tia đểu cáng, một vẻ khiêu khích, ngạo nghễ khiến Sean bắt đầu nghĩ rằng có lẽ Whitey đã đoán đúng.

“Vết máu trên ghế trước xe của cậu, Dave. Hãy trả lời ngài trung sĩ,” Sean nói. Dave quay ra nhìn Whitey. “Chúng tôi có một hàng rào lưới sắt ở sân sau. Ông biết đấy, loại hàng rào xoắn lại ở phía trên ấy? Hôm đó tôi đang sửa sang lại cái sân sau. Chủ nhà chỗ tôi cũng lớn tuổi rồi. Tôi giúp ông ấy chút việc đó đổi lại ông ấy không lấy tiền thuê nhà quá đắt. Lúc đó tôi đang cắt mấy cây tre trúc gì đó thì…”

Whitey để lộ ra một tiếng thở dài nhưng Dave có vẻ không chú ý.

“… thì trượt chân. Tay tôi vẫn đang cầm máy cắt điện nên không muốn đánh rớt, đành ngã tì vào hàng rào, xoẹt một cái.” Dave vỗ vỗ vào mạng sườn. “Ngay chỗ này. Không nghiêm trọng lắm nhưng chảy rất nhiều máu. Mà mười phút sau thì tôi phải đi đón con trai ở chỗ tập bóng chày. Có lẽ vết thương vẫn còn chảy máu lúc tôi chui vào xe. Tôi nghĩ chắc chỉ có nguyên nhân đó thôi.”

“Vậy vết máu trên ghế trước là của ông?”

“Như tôi vừa nói, chắc chỉ có nguyên nhân đó thôi.”

“Ông thuộc nhóm máu nào?”

“Nhóm B.”

Whitey cười rõ tươi rồi vòng ra phía trước, ngồi lên mép bàn. “Hay thật. Đó chính là nhóm máu chúng tôi tìm thấy ở ghế trước.”

Dave giơ hai tay lên. “Đấy, thấy chưa.”

Whitey cũng bắt chước giơ hai tay lên. “Không hẳn. Ông có thể giải thích giùm luôn về vết máu trong cốp xe được không? Chúng không thuộc nhóm máu B.”

“Chuyện này tôi không hề biết.”

Whitey cười khẽ. “Trong cốp xe của ông tìm thấy ít nhất hai mươi decilit máu mà ông lại không hề hay biết?”

“Không, tôi không hề biết gì về chuyện này.”

Whitey ghé sát vào Dave, vỗ lên vai anh. “Tôi không ngại nói cho ông biết, ông Boyle, ông không nên chọn cách này. Nếu ông ra trước tòa và nói rằng không biết làm sao trong xe của mình lại có vết máu của người khác liệu có ai tin không?”

“Tin chứ sao không.”

“Sao mà ông dám chắc vậy?”

Dave lại tựa lưng vào ghế, tay Whitey đang để trên vai anh rớt xuống. “Ông đã viết báo cáo rồi đấy thôi, trung sĩ.”

“Báo cáo nào?” Whitey hỏi.

Sean lập tức đoán ra ý của Dave và biết là họ đã sập bẫy của cậu ta.

“Báo cáo về việc xe của tôi bị đánh cắp ấy.”

“Thì sao?”

“Thì chiếc xe không ở trong tay tôi tối hôm qua. Tôi không biết bọn cướp đã sử dụng chúng để làm gì nhưng ông nhất quyết muốn tìm hiểu như vậy thì hẳn không phải là chuyện tốt.”

Trong suốt ba mươi giây đồng hồ sau đó, Whitey hoàn toàn bất động. Sean biết là ông vừa nhận ra cái bẫy của ông đã phản chủ. Bất cứ chứng cớ nào tìm thấy trong xe của Dave đều sẽ bị bãi bỏ trước tòa vì luật sư của Dave sẽ đổ lỗi cho bọn cướp.

“Đó là những vết máu cũ, ông Boyle. Không phải là xuất hiện từ mấy tiếng trước.”

“Vậy sao? Các ông có thể chứng minh điều đó không? Một cách chính thức, thưa ngài trung sĩ? Ông dám chắc rằng không phải là do nó chóng khô? Đêm hôm qua thời tiết cũng không phải là ẩm ướt.”

“Chúng tôi có thể chứng minh điều đó,” Whitey nói nhưng Sean nghe thấy giọng ông có vẻ thiếu thuyết phục và Dave cũng vậy.

Whitey đứng dậy khỏi bàn, quay lưng về phía Dave. Ông đặt tay lên miệng, gõ gõ lên môi rồi đi dọc theo bàn về phía Sean, mắt nhìn xuống sàn.

“Chai sprite của tôi có chút triển vọng nào không vậy?” Dave hỏi.

“Chúng ta sẽ cho gọi thằng bé mà Souza thẩm vấn, nhân chứng nhìn thấy chiếc xe đó. Tên nó là gì ấy nhỉ? Tommy…”

“Moldanado,” Sean đáp.

“Ừ.” Whitey lơ đãng nói, mặt mũi trông có vẻ sao lãng như thể vừa định ngồi thì bị người khác kéo ghế, ngã giập mông mà không biết tại sao. “Cho Boyle đứng vào hàng xem Moldanado có nhận dạng được không.”

“Đúng là có cái gì đó không ổn,” Sean nói.

Whitey lùi sát vào tường khi một nữ thư ký đi qua chỗ bọn họ đang đứng trong hành lang, mùi nước hoa của cô ta giống hệt Lauren khiến Sean chợt nghĩ có lẽ nên gọi vào máy cầm tay của vợ mình xem dạo này cô thế nào, nếu anh là người chủ động trước có lẽ cô sẽ nói chuyện với anh cũng nên.

“Hắn ta quá bình tĩnh. Lần đầu tiên vào phòng thẩm vấn mà thậm chí không toát mồ hôi.” Whitey nói.

“Trung sĩ, rõ ràng không phải là điềm tốt.”

“Cậu không nói đùa đấy chứ?”

“Không, ý tôi là nếu không bị lộ tẩy vụ xe ô tô thì cũng không phải là vết máu của cô Marcus trên đó. Chúng ta chả có gì để buộc tội cậu ta.”

Whitey nhìn vào cánh cửa phòng thẩm vấn. “Tôi có thể khiến hắn phải cung khai.”

“Cậu ta đang giỡn mặt chúng ta thì có,” Sean nói.

“Tôi thậm chí còn chưa vào vòng khởi động.”

Thế nhưng Sean vẫn nhìn thấy vẻ nghi hoặc trên mặt ông, dấu hiệu đầu tiên của việc nghi ngờ linh cảm của mình. Whitey rất cố chấp và thậm chí là khốc liệt nếu ông tin là mình đúng nhưng lại quá thông minh nên không bị lừa bởi một linh cảm khiến ông gặp hết trở ngại này tới trở ngại khác.

“Hay là cứ để cậu ta đổ chút mồ hôi trong đó đi,” Sean nói.

“Cậu ta có đổ chút mồ hôi nào đâu.”

“Nếu để cậu ta lại một mình có thể cậu ta sẽ dao động.”

Whitey lại nhìn về phía cửa phòng thẩm vấn như muốn thiêu trụi nó. “Cũng có thể.”

“Tôi nghĩ mấu chốt của mọi chuyện là khẩu súng. Chúng ta nên bắt đầu từ đó,” Sean nói.

Whitey nhai nhai không khí ở trong miệng rồi cuối cùng cũng gật đầu. “Tìm hiểu thêm về khẩu súng đó cũng tốt. Cậu muốn tự tiến hành?”

“Cửa hàng rượu đó vẫn không đổi chủ chứ?”

“Tôi không biết. Hồ sơ từ năm tám mươi hai, chủ cửa hàng lúc đó là Lowell Looney.”

Sean mỉm cười khi nghe thấy cái tên đó. “Nghe cũng hay đấy chứ!”

“Sao cậu không tới đó xem thế nào? Tôi sẽ canh chừng tên khốn kia sau lớp kính, xem hắn có bắt đầu ca bài các cô gái bị giết hại trong công viên không.”

Lowell Looney năm nay khoảng tám mươi tuổi nhưng trông có vẻ sẽ đánh bại Sean trong cuộc thi chạy một trăm mét. Ông ta mặc áo thun màu da cam của câu lạc bộ thể hình Porter’s Gym, quần thể thao màu xanh với một sọc bên màu trắng, giày chạy Reebok mới toanh và chuyển động một cách lanh lẹ và có vẻ không ngại nhảy lên với chai rượu cao nhất trong quầy nếu được yêu cầu.

“Đúng chỗ này,” ông ta nói với Sean và chỉ vào dãy chai phía sau quầy thu ngân. “Đi xuyên qua một chai rượu và găm vào tường.”

“Hãi thật ấy nhỉ?”

Ông già nhún vai. “Có lẽ sợ hơn phải uống sữa một tí. Nhưng cũng chẳng bằng đi ra đường ở đây vào buổi tối. Cách đây mười năm, một thằng nhóc khùng chĩa súng vào mặt tôi, ánh mắt giống hệt chó dại lên cơn, mồ hôi túa ra trên mặt tới không kịp chớp mắt. Thế mới hãi, con trai ạ. Những kẻ bắn đạn vào tường thì lại khác, là những tay chuyên nghiệp. Những tay chuyên nghiệp còn có thể đối phó được. Chúng chỉ cần tiền, chứ không cần mạng.”

“Vậy hai gã đó…”

“Tiến vào bằng cửa sau,” Lowell Looney nói và lướt về phía cuối quầy thu ngân nơi có một tấm rèm cửa màu đen che khuất khu nhà kho phía sau. “Ngoài đó có một cánh cửa dùng để nhận hàng. Vào thời điểm đó tôi có một thằng nhóc làm việc bán thời gian, lúc xảy ra chuyện nó đang ra ngoài đổ rác và hút thuốc. Có tới nửa số lần nó quay trở vào mà quên khóa cửa. Hoặc nó là tay trong hoặc bọn kia đã theo dõi nó từ lâu và biết rằng nó là một thằng đần. Đêm đó chúng đã đi vào trong lúc cửa không khóa, bắn một phát cảnh cáo khiến tôi luống cuống không kịp sờ vào súng của mình rồi cuỗm tiền đi mất.”

“Chúng lấy mất của ông bao nhiêu?”

“Sáu nghìn.”

“Một món bẫm đấy chứ!” Sean nói.

“Vào các ngày thứ Năm, tôi vẫn thường đi đổi séc ra tiền mặt. Giờ thì tôi không làm thế nữa nhưng hồi đó ngu, có biết gì đâu. Dĩ nhiên nếu bọn cướp cũng nhanh trí hơn chút thì chúng sẽ phải tấn công tôi vào buổi sáng vì lúc đó còn nhiều tiền hơn nữa. Tôi nói bọn chúng là những kẻ chuyên nghiệp nhưng không phải là những tay giỏi nhất.”

“Thằng bé để cửa mở tên là gì?” Sean hỏi.

“Marvin Ellis. Có thể nó cũng dính líu. Tôi đuổi việc nó luôn ngày hôm sau. Chuyện là chúng bắn phát cảnh cáo ấy vì chúng biết tôi có để một khẩu súng dưới quầy. Mà chuyện đó thì không phải ai cũng biết thế nên hoặc là Marvin đã bảo chúng, hoặc là một trong hai tên bọn chúng từng làm việc ở đây.”

“Ông có khai báo điều đó với cảnh sát không?”

“Có chứ.” Ông già phẩy tay nhớ lại. “Họ xem qua tất cả các giấy tờ của tôi, thẩm vấn tất cả những người tùng làm việc tại đây. Ít nhất là họ có bảo tôi thế. Nhưng chả bắt được ai. Cậu nói là khẩu súng đó đã được sử dụng để gây án lần nữa?”

“Đúng thế, ông Looney này…”

“Chúa ơi, làm ơn gọi tôi là Lowell.”

“Ông Lovvell, ông vẫn còn danh sách những người đã từng làm việc cho ông chứ?”

Dave nhìn vào tấm gương hai mặt trong phòng thẩm vấn, biết rằng đồng sự của Sean, và có lẽ cả Sean nữa, đang quan sát anh.

Tốt thôi.

Thế nào? Tôi đang thưởng thức chai Sprite của mình. Không biết họ dùng hương liệu gì? Hương chanh. Đúng thế. Tôi rất thích cái vị chanh này, trung sĩ. Thật là ngon. Đúng thế thưa ngài cảnh sát. Tôi thật muốn được uống thêm một chai nữa.

Dave nhìn thẳng vào giữa tấm gương từ phía bên kia chiếc bàn dài và cảm thấy vô cùng khoái trá. Đúng là anh không biết Celeste đã đi đâu với Michael, sự mù mờ đó khiến cho anh cảm thấy sợ hãi, đầu độc đầu óc anh còn hơn cả mười lăm lon bia đêm trước. Nhưng cô ấy sẽ trở lại thôi. Anh hình như nhớ ra đã dọa cô sợ chết khiếp. Anh hẳn đã nói năng lung tung, lải nhải về ma cà rồng hút máu rồi cái gì đã nhập vào thì không thể trở ra được nữa vân vân và vân vân khiến cô phát hoảng.

Không thể trách cô. Là lỗi của anh đã để Thằng Bé xuất hiện và trưng ra bộ mặt xấu xí, hung tợn của nó.

Thế nhưng ngoài việc Celeste và Michael bỏ đi thì anh cảm thấy rất vững vàng. Anh không còn cảm giác do dự của mấy ngày trước nữa. Đêm trước, anh thậm chí còn ngủ sáu tiếng đồng hồ. Lúc thức dậy, miệng khô khốc, nhạt thếch, đầu nặng như chì nhưng hoàn toàn thông suốt.

Anh biết mình là ai. Và anh biết mình đã làm đúng. Ngẫm lại, việc giết hại một người (không thể tiếp tục đổ lỗi cho Thằng Bé nữa vì đó chính là anh, chính là Dave đã ra tay) đã tiếp thêm sức mạnh cho Dave. Anh nghe nói ở một nền văn hóa cổ đại nào đó người ta giết người rồi ăn tim của kẻ đó. Khi ăn tim kẻ thù sẽ khiến sức mạnh của người kia nhập vào mình, quyền lực sẽ nhân đôi, linh hồn cũng vậy. Dave cũng có cảm giác đó. Không, anh không ăn tim ai cả. Không tới mức đó. Nhưng anh có cảm giác vinh quang của kẻ săn mồi. Anh đã giết người. Và anh đã đúng khi làm việc ấy. Anh đã dẹp bỏ được con quái vật ở trong lòng, một con quái vật biến thái luôn khao khát được chạm vào tay của một cậu bé và tan chảy trong đó. Con quái vật đó đã biến mất, đi xuống địa ngục cùng với nạn nhân của Dave. Giết đi một mạng người, đồng thời anh cũng tính sổ luôn thằng người xấu ở trong mình, cái tên biến thái vẫn ẩn nấp trong anh từ hồi mười một tuổi, đứng bên cửa sổ nhà anh, nhìn xuống quang cảnh tiệc tùng trên phố Rester mừng anh trở về. Lúc đó Dave cảm thấy thật yếu đuối, thật đáng thương, như bị phơi bày cả ruột gan ra trước bữa tiệc. Cậu cảm thấy mọi người đang cười thầm sau lưng mình, các bậc phụ huynh cố nặn ra những nụ cười giả tạo, đằng sau nét mặt ngoại giao trưng ra trước đám đông là sự ngấm ngầm thương hại, là sự sợ hãi, là sự ghét bỏ mà Dave đã phải lập tức rời khỏi bữa tiệc để trốn tránh vì nó khiến cậu có cảm giác của một kẻ vô cùng ti tiện.

Nhưng giờ đây sự thù ghét của người khác lại khiến anh trở nên mạnh mẽ bởi vì anh đã có một bí mật mới, lớn hơn rất nhiều so với cái bí mật đáng thương mà dường như ai cũng có thể đoán ra trước đây. Giờ anh có một bí mật khiến anh có thể ngẩng cao đầu thay vì chúi xuống.

Lại đây, anh những muốn nói với mọi người, tôi có một bí mật muốn nói. Lại gần hơn nữa, tôi sẽ nói thầm vào tai bạn.

Tôi vừa mới giết một người.

Mắt Dave xoáy vào viên cảnh sát béo phía sau tấm gương.

Tôi vừa giết một người. Và ông không tài nào chứng minh được.

Hai chúng ta ai mới là kẻ mạnh hơn?

Sean tìm thấy Whitey ở phòng kế bên buồng thẩm vấn C trước tấm gương hai mặt. Ông đứng đó, một chân gác lên chiếc ghế da đã sờn rách, vừa uống cà phê vừa nhìn Dave.

“Sếp đã cho xếp hàng để nhận dạng chưa?”

“Vẫn chưa.”

Sean tới bên cạnh ông. Dave đang nhìn thẳng về phía họ, có vẻ như đang xoáy vào mắt Whitey như thể nhìn thấy ông ta ở đó. Kỳ lạ hơn nữa, cậu ta lại còn mỉm cười. Chỉ rất nhẹ thôi nhưng rõ ràng là nét cười.

“Tâm trạng không được tốt lắm?” Sean hỏi.

Whitey nhìn anh trả lời, “Cũng tốt hơn rồi.”

Sean gật đầu. Whitey chỉ ly cà phê về phía anh. “Cậu phát hiện ra cái gì đó. Tôi có thể ngửi thấy, đồ ranh con. Khai ra mau.”

Sean những định kéo dài thời gian để chọc tức Whitey nhưng cuối cùng lại không nỡ.

“Trong số những người từng làm việc tại cửa hàng rượu Looney Liquors có một cái tên rất thú vị.”

Whitey đặt ly cà phê xuống bàn phía sau lưng và rút chân khỏi chiếc ghế. “Ai vậy?”

“Ray Harris.”

“Là Ray…?”

Sean cười rõ tươi. “Cha của Brendan Harris, trung sĩ. Một kẻ từng có tiền án tiền sự.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.