Nhà Giả Kim (Câu Chuyện Một Giấc Mơ)

Chương 9



CHÀNG TRAI KHÔNG THỂ TIN NHỮNG GÌ ĐANG NHÌN THẤY: ỐC ĐẢO, nó thực sự không chỉ là một giếng nước bao quanh với một ít cây chà là – như chàng từng thấy trong quyển sách địa lý – nó còn rộng lớn hơn nhiều thị trấn của Tây Ban Nha. Có ba trăm giếng nước, năm mươi lăm nghìn cây chà là, và hàng khối lều trại đủ màu trải dọc theo chúng.

“Nó giống như là Một nghìn lẻ một đêm”, người Anh Cát Lợi nói, trong sự thiếu kiên nhẫn và sốt ruột để gặp những nhà giả kim.

Họ bị bao vây bởi những đứa trẻ, tò mò nhìn nhìn những người và thú vật vừa đến. Những người đàn ông của ốc đảo muốn biết là họ có nhìn thấy những cuộc chiến đấu không, và những phụ nữ tranh đua với nhau để đến gần vải vóc và những hòn đá quý giá được những nhà thương gia mang đến. Sự yên lặng của sa mạc đã là một giấc mơ xa; những người du hành trong đoàn đang cười, nói, la hét liên tục, như thể là họ vừa ra khỏi thế giới tâm linh và tự tìm thấy chính mình trong thế giới con người một lần nữa. Họ an tâm và vui vẻ.

Họ đang có thái độ cẩn thận đề phòng trong sa mạc, nhưng người chăn lạc đà giải thích rằng những ốc đảo luôn luôn xem như một vùng trung lập, bởi vì đa số những người lưu trú là đàn bà và trẻ con. Có nhiều ốc đảo rãi rác trên sa mạc, nhưng những chiến binh của các bộ tộc chiến đấu trong sa mạc và để những ốc đảo như những địa điểm để trú ẩn, tị nạn.

Với một vài khó khăn, thủ lãnh của đoàn đã đem tất cả mọi người của ông ta du hành cùng với nhau và chỉ cho họ những hướng dẫn của ông ta. Đoàn người sẽ ở lại đấy tại ốc đảo cho đến khi sự xung đột giữa các bộ tộc chấm dứt. Vì họ những khách viếng thăm, họ sẽ được những tiện nghi tốt nhất. Đấy là luật của lòng hiếu khách. Rồi thì ông ta yêu cầu mọi người, kể cả những chiến binh của ông ta, trao vũ khí cho người được tù trưởng bộ tộc chỉ định.

“Đấy là những luật lệ của chiến tranh,” thủ lãnh giải thích. “Ốc đảo không thể trở thành nơi chứa chấp quân đội hay chiến binh.”

Với sự ngạc nhiên của chàng trai, người Anh Cát Lợi lấy ra một khẩu súng ngắn trong túi xách ông ta và trao cho người thu nhặt vũ khí.

“Tại sao một khẩu súng ngắn?” chàng trai hỏi.

“Nó giúp tôi tin tưởng khi ở với mọi người,” ông ta trả lời.

Trong khi ấy, chàng trai nghĩ về kho tàng của chàng. Càng gần hơn, chàng ta càng nghĩ đến việc hiện thực của giấc mơ, mọi thứ càng trở nên khó khăn hơn. Dường như những gì vị vua già đã nói “sự bắt đầu của may mắn” đã không còn nữa. Trong mục tiêu của giấc mơ, chàng đang là một đối tượng liên tục của toàn bộ sự kiên trì và can đảm. Vì thế chàng không thể nóng này, hay thiếu kiên nhẫn. Nếu chàng đẩy mạnh sự tự ý, chàng có thể thất bại trong việc thấy những dấu hiệu và điềm lành chỉ bảo được để lại bởi Đầng Tạo Hóa trên con đường của chàng.

Đấng Tạo Hóa đã đặt chúng trên con đường của mình. Chàng ngạc nhiên với suy nghĩ của mình. Cho đến lúc ấy, chàng phải quan tâm những điềm lành là những thứ của thế giới này. Như ăn hay ngũ, hay giống như tìm tình yêu hay tìm một nghề nghiệp. Chàng chưa bao giờ nghĩ về chúng trong những dạng thức của một ngôn ngữ được dùng bởi Đấng Tạo Hóa chỉ cho chàng những gì nên làm.

“Đừng thiếu nhẫn nại,” chàng lập lại với chính mình. “Nó giống như người chăn lạc đà nói: “Ăn khi nó là giờ ăn. Và tiến bước khi nó là thời điểm để cất bước.”

Ngày đầu tiên, mọi người lăn ra ngũ từ sự mệt nhừ của hành trình, kể cả người Anh Cát Lợi. Chàng trai được phân đến một nơi xa bạn của chàng, trong một lều với năm người trai tráng cùng lứa tuổi với chàng. Họ là dân của sa mạc, và la ó để được nghe những câu chuyện của chàng về những thành phố lớn.

Chàng trai kể cho họ nghe về đời sống của chàng khi là một ngưới chăn cừu, và chàng định kể về thời gian trải qua ở cửa hàng pha lê thì người Anh Cát Lợi bước vào lều.

“Tôi đã tìm cậu suốt cả buổi sáng,” ông nó, khi cùng chàng trai bước ra ngoài. “Tôi cần cậu giúp tôi tìm ra nơi ở của nhà giả kim.”

Đầu tiên, họ cố tự tìm nơi ở nhà giả kim. Một nhà giả kim chắc chắn sống trong một nơi khác biệt với những người trong ốc đảo, và chắc có lẻ lều của ông ta như một lò nướng liên tục nóng bỏng. Họ tìm khắp nơi, và thấy rằng ốc đảo thì quá rộng lớn hơn là họ đã tưởng tượng; có hàng trăm ngôi lều.

“Chúng ta đã phí hầu như cả ngày,” người Anh Cát Lợi nói, ngồi xuống gần chàng trai gần bên một cái giếng.

“Có lẽ tốt hơn là hỏi một ai đấy,” chàng trai bàn tính.

Người Anh Cát Lợi không muốn nói cho những người khác biết lý do mà ông hiện diện tại ốc đảo, và không thể nào quyết định được. Nhưng, cuối cùng, ông đồng ý với chàng trai, vì chàng nói tiếng Ả Rập sỏi hơn ông ta, nên làm như thế. Chàng trai tiến gần đến một người đàn bà vừa đến bên giếng để lấy nước vào túi da dê.

“Chào bà, buổi trưa tốt lành, tôi đang cố tìm ra nơi nhà giả kim ở nơi đây trong ốc đảo.”

Người đàn bà nói rằng, bà ta chưa từng nghe nói đến một người như thế, và vội vả biến đi. Nhưng trước khi rời khỏi, bà ta thêm rằng, chàng trai chớ nên trò chuyện hỏi thăm với những phụ nứ trang phục đen vì họ là những người đã kết hôn. Chàng nên tôn trọng truyền thống.

Người Anh Cát Lợi chán nản quá. Dường như ông đã làm một chuyến hành trình dài mà chẳng được gì. Chàng trai cũng buồn bã; bạn chàng đang sống vì mục tiêu của ‘huyền thoại cá nhân’ của ông ta, toàn vũ trụ hiệp sức đê làm một ảnh hưởng giúp ông ta thành công – đấy là những gì vị vua già đã nói. Ông ta không thể sai.

“Tôi chưa bao giờ nghe về những nhà giă kim trước đây,” chàng trai nói. “Có lẻ cũng chẳng có ai ở đây biết về họ.”

Người Anh Cát Lợi với cặp mắt đờ đẫn. “Thế là xong! Có lẽ không một ai ở đây biết một nhà giả kim là gì! Tìm ra ai là ai ai chửa cho những chứng bệnh của người ta!”

Vài phụ nữ ăn mặc toàn đen đến giếng lấy nước, nhưng sẽ chẳng nói chuyện với người nào cả, mặc dù người Anh Cát Lợi thúc hối. Rồi thì một người đàng ông tiến đến.

“Ông có biết có ai ở đây chửa bệnh cho người không?” chàng trai hỏi.

“Allah chửa bệnh cho chúng tôi,” ông ta nói, rõ ràng sợ hãi đối với những người lạ mặt. “Cậu đang tìm những ông lang phù thủy.” Ông ta đọc một vài dòng trong kinh Koran, và bỏ đi.

Một người đàn ông khác xuất hiện. Ông này già hơn, và đang mang một một chiếc thùng nhỏ. Chàng trai lập lại câu hỏi.

“Tại sao cậu lại muốn tìm loại người như thế?” người Ả Rập hỏi.

“Bởi vì bạn tôi đây đã du hành qua nhiều tháng để gặp một người như thế,” chàng trai nói.

“Nếu có những người như thế ỡ đây tại ốc đảo, ông phải là một người rất là quyền lực,” ông lão nói sau khi suy nghĩ một lúc. “Ngay cả những người tù trưởng bộ tộc cũng không thể thấy ông ta khi họ muốn. Duy chỉ khỉ nào khi ông ta đồng ý.”

“Chờ đợi cho cuộc chiến chấm dứt. Rồi thì cùng đi với đoàn người. Đừng cố gắng dấn thân vào đời sống của ốc đảo,” ông ta nói và đi ngay.

Nhưng người Anh Cát Lợi thì rất hả hê. Họ đang rà trúng con đường.

Cuối cùng, một thiếu nữ trẻ tiến đến và không trong trang phục màu đen. Cô ta mang một chiếc bình trên vai, đầu cô ta đội một tấm khăn, nhưng cô ta không che mặt. Chàng trai đến gần cô ta và hỏi về nhà giả kim.

Tại thời điểm ấy, thời gian dường như dừng lại, và ‘Tâm linh của thế giời’ bừng lên trong lòng chàng. Khi chàng nhìn vào đôi mắt đen thẩm của cô và thấy đôi môi cô nàng dường như lơ lửng giữa cười và im lặng, chàng học được phần quan trọng nhất của ngôn ngữ mà tất cả thế giới đều nói – ngôn ngữ mà mọi người trên trái đát có thể hiểu trong trái tim cua họ. Có những gì đấy lâu hơn, lớn tuổi hơn loài người, cổ xưa là sa mạc. Những gì đấy duy trì cùng sức mạnh bất cứ khi nào hai cặp mắt chạm vào nhau, khi có chúng ở đây tại giếng nước. Cô nàng mĩm cười, và chắc chắn đấy là một điềm lành – điềm lành mà chàng từng chờ đợi, không biết ngay cả chàng là gì, cho cả đời sống của chàng. Điềm lành đòi hỏi chàng tìm đến với đàn cừu của chàng, và trong những quyển sách, trong cửa hàng pha lê, và trong sự im lặng của sa mạc.

Nó là ‘ngôn ngữ tinh khiết của thế giới’. Nó không đòi hỏi một sự giải thích, chỉ như vũ trụ không cần một sự giải thích khi cứ trôi đi với thời gian vô tận. Những gì chàng trai càm thấy lúc ấy như thể là chàng đã hiện diện trong hiện tại với người con gái duy nhất trong đời chàng, và đấy, không cần lời nào cả, cô nàng cũng nhận thấy giống như thế. Chàng chắc chắn nó hơn với bất cứ điều gì trên trên thế giới này. Bố mẹ và ông bà chàng đã từng nói rằng chàng phải yêu và thật sự biết một người trước khi hứa hôn. Nhưng biết bao người cũng cảm thấy như thế nhưng không biết ngôn ngữ của vũ trụ. Bởi vì khi chúng ta biết ngôn ngữ ấy, thật dễ dàng để hiểu rằng có ai đấy trên thế giới đang chờ đợi chúng ta, cho dù là trong sa mạc hay trong những thành phố lớn. Và khi hai người như thế gặp gở nhau, và mắt họ nhìn nhau, quá khứ và tương lai trở nên không quan trọng nữa. Duy chỉ giây phủt ấy, và điều diệu kỳ chắc chắn là mọi thứ dưới ánh mặt trời đã được viết bằng một bàn tay duy nhất. Nó là bàn tay gọi tình yêu lên, và tạo nên một tâm hồn đôi lứa cho mỗi người trên thế giới. Không có tình yêu ấy, những giấc mơ của người ta trở nên vô nghĩa.

Maktub, chàng trai nghĩ.

Người Anh Cát Lợi lay chàng: “Hê, hỏi cô ta.”

Chàng trai bước tới gần hơn bên cô gái, và khi cô nàng mĩm cười, chàng cũng làm thế.

“Cô tên gì?” chàng hỏi.

“Fatima,” cô nàng nói, quay mắt đi.

“Đấy cũng là tên mà những nữ nhân ở xứ sở tôi cũng được gọi như thế.”

“Nó là tên của con gái Đầng Tiên Tri,” Fatima nói, “Những người chinh phục đã mang tên ấy đi khắp nơi.” Cô gái xinh đẹp nói đến những người chinh phục với sự tự hào.

Người Anh Cát Lợi thúc nhẹ chàng trai, và chàng hỏi nàng ta về những người có thể chửa những chứng bệnh của người khác.

“Đấy là người có thể biết tất cả bí mật của thế giới,” cô nói. ”Ông ta tiếp xúc với những vị thần linh của sa mạc.”

Thần linh là những vị tâm linh tinh thần của tốt và xấu. Và cô nàng chỉ về hướng nam, cho biết nó là nơi mà người đàn ông kỳ lạ ở. Rồi cô ta lấy đầy nước vào bình và bước đi.

Người Anh Cát Lợi cũng biến mất, để đi tìm nhà giả kim. Và chàng trai ngồi đấy bên giếng nước một hồi lâu, nhớ lại rằng một ngày nào đấy ở Tarifa ngọn gió đông của Địa Trung Hải đã mang đến chàng nước hoa của người con gái ấy, và nhận thức rằng chàng đã yêu nàng trước ngay cả biết nàng hiện hữu. Chàng biết rằng tình yêu dành cho nàng có thể cho chàng khám phá mọi kho tàng trên thế giới.

Ngày hôm sau, chàng trai trở lại giếng nước, hy vọng sẽ thấy cô gái. Với sự ngạc nhiên của chàng, người Anh Cát Lợi đã ở đấy, nhìn ra sa mạc.

“Tôi đã chờ đợi cả buổi trưa và buổi chiều,” ông ta nói. “Ông ta (nhà giả kim) xuất hiện với vì sao đầu tiên của buổi tối. Tôi nói với ông ta những gì tôi đang tìm kiếm, và ông ta hỏi tôi rằng tôi có bao giờ biến chì thành vàng chưa. Tôi nói rằng đấy là lý do tôi phải đến đây để học.

“Ông ta nói với tôi rằng tôi nên cố gắng làm như thế. Đấy là tất cả những gì ông ta nói: tiếp tục và cố thử.”

Chàng trai chẳng nói gì cả. Người Anh Cát Lợi tội nghiệp đã du hành đến đây tất cả vì để gặp nhà giả kim, và chỉ được nghe nói rằng ông ta lập lại những gì mà ông ta đã làm bao nhiêu lần rồi.

“Vậy à, thế thì cố gắng,” ông ta nói với người Anh Cát Lợi.

“Đấy là những gì tôi sẽ làm. Tôi sẽ bắt đầu bây giờ.”

Khi người Anh Cát Lợi đi rồi, Fatima đến và lấy nước vào bình.

“Tôi đến đây để nói với nàng chỉ một điều,” chàng trai nói. “Tôi muốn nàng trở thành vợ tôi. Tôi yêu nàng.”

Cô gái đặt bình xuống và lấy nước vào.

“Tôi sẽ chờ đợi nàng ở đây mỗi ngày. Tôi đã vượt qua sa mạc đi tìm kho tàng ở gần đâu đấy bên cạnh những Kim Tự Tháp, và đối với tôi, chiến tranh dường như là một lời nguyền rủa. Nhưng bây giờ nó là một sự gia ân, bởi vì nó đã mang tôi đến với nàng.”

“Chiến tranh sẽ chấm dứt trong một ngày gần đây,” cô gái nói.

Chàng trai nhìn chung quanh chàng tại những hàng cây chà là. Chàng nhớ lại rằng chàng là một kẻ chăn cừu, và rằng chàng có thể lại là kẻ chăn cừu lần nữa. Fatima quan trọng hơn kho tàng của chàng.

“Những người đàn ông của các bộ lạc luôn luôn tìm kiếm kho tàng,” cô gái nói, dường như cô ta có thể đoán được những gì chàng trai đang nghĩ. “Và những người đàn bà của sa mạc tự hào về những người đàn ông của họ.”

Cô nàng lấy đầy nước và bước đi.

Chàng trai đến giếng nước mỗi ngày để gặp mặt Fatima. Chàng kể cho nàng nghe về cuộc đời chàng một kẻ chăn cừu, về vị vua già, và về cửa hàng pha lê. Họ trở thành bạn, và ngoại trừ mười lăm phút dành cho nàng mỗi ngày dường như chẳng bao giờ trôi qua. Khi chàng đã ở ốc đảo gần một tháng, thủ lãnh của đoàn người gọi tập họp tất cả những người đã du hành với ông ta.

“Chúng ta không biết bao giờ cuộc chiến chấm dứt, vì thế chúng ta không thể tiếp tục cuộc hành trình,” ông ta nói. “Chiến sự có thể tiếp diễn lâu dài, có thể cả năm. Cả hai bên đều có lực lượng hùng hậu, và chiến tranh thì quan trọng cho cả hai lực lượng quân đội. Nó không phải là chiến trận của bên tốt chống lại bên xấu. Nó là chiến tranh giữa những lực lượng chiến đấu vì sự cân bằng sức mạnh, và, khi loại chiến tranh này khởi diễn nó sẽ kéo dài hơn những chiến trận khác – bởi vì Allah ở cả hai bên.”

Người ta trở lại những lều trại của mình ở, và chàng trai đến giếng nước gặp Fatima trưa hôm ấy. Chàng kể cho nàng nghe về cuộc họp buổi sáng. “Cái ngày sau khi chúng ta gặp,” Fatima, “chàng nói với tôi rằng chàng yêu tôi. Rồi, chàng dạy tôi về ngôn ngữ vũ trụ và Tâm linh của Thế giới. Vì lẽ ấy, tôi đã trở thành một phần của chàng.”

Chàng trai lắng nghe giọng nói của cô gái, và nghĩ nó tuyệt vời hơn âm thanh của làn gió trong những hàng chà là.

“Tôi đã chờ đợi chàng ở ốc này từ lâu lắm rồi. Tôi đã quên rồi quá khứ của tôi, về truyền thống của tôi và cung cách mà những người đàn ông sa mạc đòi hỏi ở người phụ nữ cư xử. Từ khi còn là một đứa bé, tôi đã mơ rằng sa mạc sẽ mang đến cho tôi một món quà tuyệt hảo. Giờ đây, tặng phẩm ấy đã đến, và nó là chàng.”

Chàng trai muốn nắm lấy tay nàng. Nhưng đôi tay Fatima đang nắm đôi quay bình nước.

“Chàng đã nói với tôi về giấc mơ của chàng, về vị vua già và kho tàng của chàng. Và chàng đã nói về những điềm lành. Vì thế, giờ đây, tôi chẳng sợ gì cả. Và tôi là một phần của giấc mơ của chàng, một phần huyền thoại cá nhân của chàng, như chàng đã gọi như thế.

“Đó là tại sao tôi muốn chàng tiếp tục tiến tới mục tiêu của chàng. Nếu chàng phải chờ đợi khi chiến cuộc chấm dứt, thì cứ đợi chờ. Nhưng nếu chàng phải ra đi trước khi ấy, thì nên theo đuổi ước mơ của mình. Những đụn cát bị thay đổi vì gió, nhưng sa mạc thì chẳng bao giờ đổi thay. Đấy cũng sẽ là cung cách tình yêu của chúng ta cho mỗi người.

“Maktub,” nàng nói. “Nếu tôi thật sự là một phần giấc mơ của chàng, chàng sẽ trở lại một ngày nào đấy.”

Chàng trai buồn bả khi rời nàng ngày hôm ấy. Chàng nghĩ về những cuộc hôn nhân của những người chăn cừu chàng đã biết. Họ có một lần khó khăn để thuyết phục những người vợ của họ rằng họ phải lìa bỏ những cánh đồng xa xôi. Tình yêu đòi hỏi họ ở lại với người mà họ yêu.

Chàng nói với Fatima điều ấy, trong lần gặp gở kế tiếp.

“Sa mạc đã mang đi những người đàn ông của chúng tôi, và họ không phải luôn luôn trở lại,” nàng nói. “Chúng tôi biết thế, và chúng tôi cũng đã quen như thế. Những ai không trở lại trở thành một phần của mây ngàn, một phần núi rừng và của gió, của lửa, của nước đến từ trái đất này. Họ trở thành một phần của mọi thứ…và họ trở thành Tâm Linh của Thế Giới.

“Một số người trở về. Và rồi thì những người phụ nữ vui mừng hạnh phúc bởi vì họ tin rằng những người đàn ông sẽ trở về một ngày nào đấy. Tôi đã quen nhìn những người phụ nữ ấy và thèm muốn đố kỵ với hạnh phúc của họ. Giờ đây, tôi cũng sẽ trở thành một người trong những người phụ nữ đợi chờ ấy.

“Tôi là một người phụ nữ của sa mạc, và tôi tự hào về điều ấy. Tôi muốn lang quân tôi dong ruổi tự do như làn gió tạo thành những đụn cát. Và, nếu tôi phải, tôi sẽ chấp nhận sự kiện người ấy trở thành một phần của mây ngàn, gió nội, đất nước của sa mạc.”

Chàng trai đi tìm người Anh Cát Lợi. Chàng muốn kể cho ông ta nghe về Fatima. Chàng ngạc nhiên khi thấy người Anh Cát Lợi đã tự xây một lò luyện kim bên ngoài lều của ông ta. Đấy là một lò luyện kim lạ lung, nhiên liệu là củi, với một bình thót cổ trong suốt đốt nóng trên chóp. Khi ấy ông ta nhìn chăm chăm ra sa mạc, đôi mắt ông ta dường như rạng rở hơn những lúc ông ta đang đọc sách.

“Đây là mãng đầu tiên của công việc,” ông ta nói. “Tôi phải tách rời sulfur. Để làm việc này thành công, Tôi phải không sợ thất bại. Tôi sợ thất bại đầu tiên sẽ làm tôi nản chí trong việc cố gắng đạt đến Kiệt Tác. Giờ đây tôi sẽ bắt đầu những gì tôi đã có thể khởi sự mười năm trước đây. Nhưng tôi vui vì tối thiểu tôi không phải chờ hai mươi năm.”

Ông ta tiếp tục châm củi vào lò, và chàng trai ở đấy cho đến khi sa mạc chuyển màu hồng của mặt trời lặn. Chàng cảm thấy sự thôi thúc tiến vào sa mạc, để thấy sự im lặng của nó có chứa đựng câu trả lời không.

Chàng quẩn quanh trong một lúc, giữ những hàng chà là trong tầm mắt của mình. Chàng lắng nghe làn gió, và cảm nhận những hòn đá dưới chân. Đây, đó, chàng thấy những võ sò, và nhận thức rằng sa mạc, trong một thời gian xa xăm nào đấy, đã từng là biển cả. Chàng ngồi trên một tảng đá, và tự cho phép mình bị thôi miên bởi chân trời. Chàng cố gắng đối phó với nhận thức của tình yêu như khác biệt với sự chiếm hữu, và không thể tách rời chúng. Nhưng Fatima là một người con gái của sa mạc, và, nếu có bất cứ thứ gì có thể giúp chàng hiểu, nó là sa mạc.

Khi chàng đứng đấy suy nghĩ, chàng cảm thấy sự chuyển động ở phía trên chàng. Nhìn lên, chàng thấy một đôi diều hâu đang bay cao trên bầu trời.

Chàng nhìn đôi chim ưng khi chúng bay lượn theo làn gió. Mặc dù những cánh chim xuất hiện bình thường không theo một khuôn mẫu nào, nhưng chúng chắc chắn làm nên một loại cảm giác nào đối với chàng trai. Chỉ là chàng không thể nắm bắt được ý nghĩa của nó. Chàng theo những chuyển động của những con chim, cố gắng để đọc những gì đấy trong chúng. Có thể những con chim của sa mạc có thể giải thích đến chàng ý nghĩa của tình yêu mà không phải chiếm hữu.

Chàng cảm thấy buồn ngủ. Trong tim chàng, chàng muốn duy trì tỉnh thức, nhưng chàng cũng muốn ngủ đi. “Mình đang học Ngôn Ngữ của Thế Giới”, và mọi thứ trên thế giới đang bắt đầu có ý nghĩa với mình…Và, trong giai điệu ấy, chàng cảm ơn được ở trong tình yêu. Khi chúng ta trong tình yêu, mọi thứ dường như có ý nghĩa hơn, chàng nghĩ.

Đột nhiên, một con chim ưng, buông mình xuống trong bầu trời, tấn công con kia. Khi nó làm như thế, một cảm nghĩ thoáng qua đến với chàng trai: một đội binh, với những thanh gươm của nó đã sẵn sàng, tiến tới ốc đảo. Cảm tưởng ấy bị xóa nhòa tức thì, nhưng nó làm chàng giao động. Chàng đã từng nghe người ta để cập về ảo ảnh, và chàng đã tự thấy một ít rồi: họ khao khát, do bởi sức mạnh của họ, vật chất hóa làn cát của sa mạc. Nhưng chắc chắn chàng không muốn một đội binh xâm chiếm ốc đảo.

Chàng muốn quên đi cảm giác ấy, và trở lại sự thiền định tĩnh tâm của mình. Chàng cố gắng một lần nữa tập trung trên bóng hồng của sa mạc, và những tảng đá của nó. Nhưng có gì đấy trong tim chàng không cho phép chàng làm thế.

“Luôn luôn lưu tâm đến những điềm báo hiệu”, vị vua già đã nói thế. Chàng trai nhớ lại những gì chàng đã thấy trong cảm giác, và cảm giác rằng nó thật sự sẽ xâm chiếm.

Chàng đứng lên, và quay trở lại những hàng chà là. Một lần nữa, chàng cảm thấy nhiều ngôn ngữ trong những thứ về chàng: lần này, sa mạc an toàn, và ốc đảo trở nên nguy hiểm.

Anh chàng chăn lạc đà đang ngồi dưới gốc một cây chà là, ngắm nhìn hoàng hôn. Anh ta thấy chàng trai xuất hiện từ phía khác của đụn cát.

“Một đội binh đang tiến tới, chàng trai nói. “Tôi có một cảm giác.”

“Sa mạc đầy những trái tim của người với cảm giác,” anh ta trả lời.

Nhưng chàng trai nói với anh ta về những con chim ưng: rằng chàng đã nhìn những cánh chim và bổng nhiên cảm thấy chìm ngập trong Tâm Linh của Thế Giới.

Anh chàng chăn lạc đà hiểu những gì chàng trai đang nói. Anh ta hiểu rằng bất cứ điều gì trên mặt đất có thể vén mở lịch sử của tất cả mọi thứ. Một người có thể mở quyển sách ra ở bất cứ trang nào, hay nhìn trên bàn tay một người; lật một lá bài, hay nhìn những cánh chim bay lượn … bất cứ vật gì quán chiếu, người ta có thể tìm thấy một liên hệ với kinh nghiệm của người ấy của khoảnh khắc. Thật sự không phải những thứ đó tự trong chúng vén mở bất cứ gì cả; nó chỉ là người ta, nhìn tại những thứ đang hiện diện chung quanh họ, có thể tìm ra ý nghĩa thẩm thấu với Tâm Linh của Thế Giới.

Sa mạc đầy những người có những kinh nghiệm cuộc sống căn bản trên sự thanh thoát với những điều họ có thể thấu suốt đến Tâm Linh của Thế Giới. Họ được gọi là những nhà tiên tri, và họ được giữ vững trong sự sợ hải của đàn bà và người già cả. Những người đàn ông bộ tộc thì cũng cảnh giác trên những sự cố vấn của họ, bởi vì nó có thể tác động trên chiến trận nếu ai đấy biết rằng ông ta đã đến số mệnh để chết. Những người đàn ông bộ tộc thích hương vị của chiến trận, và hồi hợp không biết điều gì sẽ xãy ra; tương lai đã được viết bởi Allah, và những gì ngài viết luôn luôn cho sự tốt đẹp của con người. Vì vậy họ chỉ sống cho hiện tại, bởi vì hiện tại đầy nhưng ngạc nhiên, và họ phải được cảnh giác với nhiều thứ: Thanh gươm của kẻ thù ở đâu? Ngựa của hắn ở đâu? Mưu chước nào hắn sẽ giở ra tiếp theo để vẫn được sống? Người chăn lạc đà không phải là một chiến sĩ, và anh ta phải hỏi ý kiến với những nhà tiên tri. Nhiều người đã đúng với những điều họ nói, trong khi một số thì sai. Rồi thì, một ngày nọ, người tiên tri già nhất từ trước đến giờ được tìm thấy (và là một trong những người đáng sợ nhất) hỏi anh chàng chăn cừu rằng tại sao anh ta quá thích thú đến tương lai.

“Ô… vì tôi có thể làm mọi thứ,” anh ta trả lời. “Và vì tôi có thể thay đổi những thứ đó mà tôi không muốn xảy ra.”

“Nhưng nếu rồi ra chúng không phải là một phần của tương lai của anh thì sao,” lão tiên tri nói.

“Ô, có thể tôi chi muốn biết tương lai để tôi có chuẩn bị cho những gì đang tiến tới.”

“Nếu những thứ tốt đẹp đang đến, chúng sẽ là một ngạc nhiên hứng thú,” lão tiên tri nói. “Nếu đó là những thứ tệ hại, và anh biết trước là, anh sẽ khổ đau vô cùng trước khi chúng xảy ra.”

“Tôi muốn biết tương lai vì tôi là một người đàn ông,” anh chàng chăn lạc đà từng nói vời lão tiên tri: “Và những người đàn ông luôn luôn sống đời sống của họ căn cứ trên tương lai.”

Lão tiên tri là một nhà chuyên môn về tung những cành cây; ông ta ném chúng trên mặt đất, và diễn giải căn cứ trên hình thể chúng rơi như thế nào. Hôm ấy, lão không tung cây. Lão gói những que cây trong một mãnh vải và đặt chúng trở lại trong túi.

‘’Lão sống bằng việc đoán trước tương lai cho mọi người,” ông nói. “Lão biết tri thức của những que cây, và biết làm thế nào để dùng chúng nhìn xuyên qua những nơi tất cả được viết. Nơi ấy, lão có thể đọc được quá khứ, và khám phá những gì đã bị lãng quên, và hiểu những điềm chỉ bảo ở đây trong hiện tại.

“Khi người ta hỏi lão, không phải là lão đọc tương lai; lão đoán tương lai. Tương lai thuộc về Đầng Tạo Hóa, và ngài chỉ vén lên trong những tình huống thật khác thường. Làm thế nào lão đoán tương lai? Căn cứ trên những điềm chỉ dẫn hiện tại. Bí mật là ở đây ngay bây giờ. Nếu anh chú ý đến hiện tại, anh có thể cải thiện tận dụng trên nó. Và nếu anh cải thiện hiện tại, những gì xảy ra sau này cũng sẽ tốt hơn. Hãy quên đi tương lai, và sống từng ngày theo những lời giáo huấn, chắc chắn Tạo Hóa yêu thương những đứa con của ngài. Mỗi ngày, tự nó, mang đến nó một sự vĩnh cữu bất diệt.

Người chăn lạc đà đã từng hỏi trong những trường hợp nào mà Đầng Tạo Hóa sẽ cho phép anh ta thấy tương lai.

“Chỉ trong trường hợp tự ngài vén màn nó. Và Tạo Hóa chỉ vén mở tương lai rất hiếm hoi. Khi ngài làm thế, chỉ vì một lý do: nó là tương lai được viết để nó được sửa đổi.”

Đầng Tạo Hóa đã biểu hiện cho chàng trai một phần của tương lai, anh chàng chăn lạc đà nghĩ như thế. Tại sao ngài đã muốn chàng trai phục sự như một phương tiện của ngài?

“Hãy đi và nói với người tộc trưởng của bộ tộc,” anh chàng chăn lạc đà nói. “Nói với họ về những đội binh đang tiến đến.”

“Họ sẽ cười vào mặt tôi.”

“Họ là những người của sa mạc, và những người của sa mạc thường đáp ứng với những điềm chỉ bảo.”

“Ô, thế thì họ chắc chắn đã biết rồi.”

“Họ không quan tâm với nó ngay bây giờ. Họ tin rằng nếu họ phải biết về việc gì ấy mà Allah muốn họ biết, ai đây sẽ nói cho họ biết. Nó đã xãy ra nhiều lần trước đây. Nhưng, lần này, người ấy là cậu.”

Chàng trai nghĩ về Fatima. Và chàng quyết định sẽ đến gặp người tộc trưởng của bộ tộc.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.