Quyền Lực Thứ Tư

Chương 21



Báo

DAILY MIRROR

Ngày 27 tháng Mười, 1964

CAM KẾT ĐẦU TIÊN CỦA WILSON:

“CHÚNG TÔI NẮM QUYỀN VÀ CHÚNG TÔI SẼ”

Keith đồng ý gặp Kate ở Palm Court lúc 7 giờ để ăn sáng. Anh ngồi xuống chiếc bàn trong góc và xem tờ The Times. Anh chẳng hề ngạc nhiên là tại sao nó mang lại ít tiền đến vậy, và không hiểu nổi tại sao Astors chưa đóng cửa nó, vì chẳng còn ai muốn mua nó cả. Anh gọi cà phê đen, và thôi không tập trung vào câu chuyện khi ý nghĩ của anh tự nhiên hướng đến Kate. Nàng vẫn xa cách và chỉ thuần túy chuyên môn đến nỗi anh bắt đầu băn khoăn không biết liệu nàng có những người đàn ông khác trong đời không và liệu anh có dại dột không khi đề nghị nàng cùng làm việc.

Nàng đến sau 7 giờ vài phút, mang theo tờ Guardian. Không phải là cách tốt nhất để bắt đầu một ngày, Keith nghĩ, mặc dù anh phải thừa nhận rằng anh vẫn cảm thấy thích thú như lần đầu tiên nhìn thấy nàng.

“Sáng nay ông thấy thế nào?” Nàng hỏi.

“Chưa khi nào tốt hơn.” Keith nói.

“Liệu nó có giống với cảm giác về một ngày ta được làm chủ một cái gì đó không?’’ Nàng hỏi với một nụ cười rạng rỡ.

“Đúng”, anh nói “Tôi có cảm giác là vào giờ này ngày mai tôi sẽ được làm chủ tờ báo đầu tiên của mình ở nước Anh”.

Người hầu bàn rót cho Kate một tách cà phê sữa. Nàng đã gây được ấn tượng rằng sau chỉ có một ngày ở khách sạn anh đã không cần phải hỏi xem liệu nàng có muốn lấy sữa không.

“Tối qua, Henry Wolstenholme gọi điện cho tôi ngay trước khi tôi đi ngủ.” Keith nói. “Anh ta đã nói chuyện với Shuttleworth, và cho đến khi chúng ta tới Leeds, các luật sư sẽ sẵn sàng tất cả mọi bản hợp đồng để ký”.

“Liệu ông có mạo hiểm quá không? Ông còn chưa nhìn thấy các nhà in kia mà”.

“Không, tôi sẽ chỉ ký khi được chín mươi ngày khảo sát, vì vậy cô hãy chuẩn bị để sống một thời gian ở miền Bắc nước Anh. Vào mùa này thời tiết ở đấy rất lạnh”.

“Ngài Townsend, ngài Townsend”. Một người trực tầng mang tấm biển có đề tên Keith, bước thẳng tới chỗ họ. “Thư của ngài”, anh ta nói, cầm trong tay chiếc phong bì.

Keith bóc toạc chiếc phong bì và nhìn thấy dòng chữ nguệch ngoạc trên tờ giấy có in nổi tiêu ngữ của Cao ủy Úc “Gọi điện ngay. Alexander Downer”.

Anh đưa nó cho Kate. Nàng cau mày. “Sao ông biết Downer?”

“Tôi gặp anh ta một lần ở Cup Melbourne”. Keith nói, “nhưng đó là từ rất lâu trước khi anh ta trở thành Cao ủy. Tôi không nghĩ là anh ta còn nhớ đến tôi”.

“Ông ta có thể muốn gì ở ông trong sáng nay”, Kate hỏi.

“Tôi không biết. Có lẽ anh ta muốn biết tại sao tôi từ chối lời mời đến ăn bữa tối nay”, anh nói và cười. “Chúng ta có thể thường xuyên đến thăm anh ta khi từ đây trở về. Vì vậy, tốt hơn là tôi nên thử nói chuyện với anh ta trước khi chúng ta đi Leeds.” Anh đứng dậy khỏi ghế. “Tôi mong đợi cái ngày có điện thoại trên ô tô”.

“Tôi sẽ trả phòng và đợi ông ở sảnh trước 7 giờ 30 phút”, Kate nói.

“Được”, Keith đáp và rời khỏi Palm Court để tìm chỗ gọi điện. Người trực sảnh chỉ cho anh chiếc bàn nhỏ đối diện với quầy tiếp tân. Keith quay số máy in trên đầu trang giấy, và gần như ngay lập tức một giọng phụ nữ trả lời. “Chào ngài, đây là Cao ủy Úc”.

“Tôi có thể nói chuyện với ngài Cao ủy được không?” Keith hỏi.

“Ngài Downer đang bận, thưa ngài. Xin ngài vui lòng gọi lại sau 9 giờ 30 phút”.

“Tôi là Keith Townsend. Ngài Cao ủy đã đề nghị tôi gọi tới cho ông ấy ngay lập tức”.

“Ồ, vâng, thưa ngài, tôi được dặn là nếu ngài gọi tới, phải nối ngay máy tới nhà riêng. Xin ngài cầm máy”.

Keith nhìn đồng hồ. Đã 7 giờ 20 phút.

“Tôi là Alexander Downer”.

“Keith Townsend đây, chào ngài Cao ủy. Anh đã đề nghị tôi gọi ngay cho anh”.

“Đúng, cảm ơn, Keith. Lần cuối cùng chúng ta gặp nhau là ở Cup Melbourne, nhưng tôi không nghĩ là anh còn nhớ”. Ngữ điệu Úc của anh ta còn dễ nhận ra hơn cả Townsend.

“Thì thực tế là tôi vẫn nhớ đấy thôi”, Townsend nói.

“Tôi rất tiếc phải báo cho anh một tin xấu, Keith. Hình như mẹ anh bị một cơn đau tim. Bà đang nằm ở Bệnh viện Royal Melbourne. Tình trạng của bà ổn định, nhưng bà phải nằm cấp cứu.”

Townsend nghẹn lời. Anh đã không có mặt khi cha anh qua đời, và anh đang…

“Anh còn ở đó chứ, Keith?”

“Vâng, vâng”, anh nói “Nhưng hôm trước khi đi, tôi đã ăn tối với bà, và tôi thấy bà rất khỏe mạnh”.

“Tôi rất tiếc, Keith. Thật đáng nguyền rủa là điều này lại xảy ra khi anh đang ở nước ngoài. Tôi đã đặt hai chỗ ở khoang hạng nhất trên chuyến bay Qantas đến Melbourne, cất cánh lúc chín giờ sáng nay. Anh có thể sử dụng nó nếu anh rời khỏi đó. Hoặc anh có thể bay chuyến sáng mai”.

“Không, tôi sẽ đi ngay bây giờ”, Townsend nói.

“Anh có muốn tôi cho xe đến khách sạn để đưa anh ra sân bay không?”

“Không, không cần. Tôi đã hẹn xe đưa tôi đến nhà ga. Tôi sẽ dùng xe đó”.

“Tôi đã báo trước cho nhân viên Qantas ở Heathrow, vì vậy anh sẽ không bị chậm, nhưng nếu tôi có thể giúp được điều gì thì đừng ngần ngại gọi cho tôi. Hy vọng chúng ta sẽ gặp lại nhau trong một hoàn cảnh dễ chịu hơn”.

“Cảm ơn”, Townsend đáp. Anh đặt máy xuống và chạy sang quầy lễ tân.

“Tôi sẽ trả phòng ngay bây giờ.” anh nói. “Làm ơn ghi sẵn hóa đơn ngay khi tôi quay xuống”.

“Vâng, thưa ngài. Ngài vẫn cần chiếc xe đang đợi bên ngoài chứ ạ?”

“Phải”, Townsend nói. Anh quay đi thật nhanh và lao lên cầu thang, chạy dọc hành lang để tìm số. Khi đến số 124, anh đập mạnh cửa. Kate mở ra, và ngay lập tức nhận thấy vẻ lo lắng trên mặt anh.

“Có chuyện gì vậy?” Nàng hỏi.

“Mẹ tôi bị đau tim. Cầm túi của cô lên. Chúng ta sẽ đi trong vòng 5 phút nữa”.

“Tôi rất tiếc, thưa ông,” nàng nói, “ông có muốn tôi gọi cho ông Henry Wolstenholme và cho ông ấy biết chuyện không?”

“Không, chúng ta có thể làm việc ấy ở sân bay,” Townsend vừa nói vừa lao bổ ra hành lang.

Trong khi hành lý được để vào cốp xe, anh trả tiền, boa cho người trực tầng và khi vào xe, anh nói với tài xế, “Heathrow”.

“Heathrow?” Người lái xe ngạc nhiên.”Theo lịch hôm nay tôi phải chở ngài tới King’s Cross. Trong lịch không nói gì đến Heathrow cả”.

“Tôi cóc cần biết cái lịch của anh nói gì”, Townsend quát, “hãy đưa tôi đến Heathrow”.

“Rất tiếc, thưa ngài, nhưng tôi có những chỉ thị của tôi. Ngài biết đấy, đến King’s Cross là một cuốc xe nội hạt trong khi đi Heathrow là một chuyến đi ngoại tỉnh, và tôi không thể…”.

“Nếu anh không chạy và chạy thật nhanh. Tôi sẽ bẻ gãy cổ anh”, Townsend nói.

“Tôi không muốn nghe những lời như vậy từ bất kỳ ai,” người lái xe nói. Anh ta ra khỏi xe, mở ngăn đựng hành lý và bắt đầu dỡ va ly của họ xuống vỉa hè.

Townsend gần như nhảy bổ vào anh ta thì Kate nắm tay anh lại. “ông hãy ngồi yên để tôi dàn xếp chuyện này”, nàng khẽ nói.

Townsend không nghe thấy cuộc đối thoại diễn ra đằng sau xe, nhưng ít lâu sau anh nhận thấy va ly đã được bỏ lại vào cốp. Khi Kate trở vào xe, anh nói. “Cảm ơn”.

“Đừng cảm ơn tôi, hãy cảm ơn anh ta”, nàng thì thầm.

Người lái xe thong thả đưa xe xuống khỏi vỉa hè, vòng sang trái và hòa vào dòng xe cộ buổi sáng. Anh nhận ra rằng dòng xe rời London vào giờ này chẳng giống chút nào với hàng xe dài dằng dặc nối đuôi nhau cố chặn đường đi vào thủ đô của họ.

“Tôi sẽ gọi cho Downer ngay khi ta đến sân bay”. Townsend nói khẽ.

“Ông muốn gọi lại cho ông ấy làm gì?” Kate hỏi.

“Tôi nghĩ tôi cần thử nói chuyện với bác sĩ của mẹ tôi ở Melbourne trước khi chúng ta bay, nhưng tôi không nhớ số”.

Kate gật đầu. Townsend bắt đầu gõ ngón tay lên cửa sổ. Anh cố nhớ lại lần gặp mẹ gần đây nhất. Anh đã nói cho bà biết khả năng mua lại Tổ hợp West Riding, và bà đã đáp lại bằng những câu hỏi sắc sảo như thường lệ. Trước khi đi, anh hứa sẽ gọi điện cho bà từ Leeds nếu anh hoàn thành vụ giao dịch.

“Thế cô gái đi cùng con là ai?” Bà hỏi. Anh đã nói quanh, nhưng anh biết không thể lừa được bà. Anh liếc nhìn Kate và muốn nắm lấy tay nàng, nhưng hình như nàng đang nghĩ đến chuyện gì đó. Chẳng ai trong số họ thốt lên lời nào cho tới khi đến sân bay. Townsend nhảy ra khỏi xe và chạy đi kiếm xe đẩy trong khi người lái xe bỏ vali xuống. Lát sau chúng đã được xếp ngay ngắn, anh cho anh ta số tiền boa hậu hĩnh, nói vài câu cảm ơn, sau đó đẩy chiếc xe nhanh hết mức có thể, tới bàn kiểm tra, với Kate chạy theo sau.

“Chúng tôi vẫn kịp chuyến bay đến Melbourne chứ?” Townsend hỏi khi đưa hộ chiếu lên bàn kiểm tra Qantas.

“Vâng, thưa ngài Townsend”, cô nhân viên trả lời, tay mở cuốn hộ chiếu của anh. “Ngài Cao ủy đã gọi đến từ trước”. Cô nhìn lên và tiếp “Chúng tôi đã chuẩn bị hai vé cho ngài, một mang tên ngài, và cái kia mang tên cô Tuhllo”.

“Đó là tôi”. Kate nói, tay rút cuốn hộ chiếu.

“Chỗ của hai ông bà ở khoang hạng nhất, ghế số 3D và E. Xin mời ông bà đi thẳng đến cửa số 17, nơi máy bay sắp cất cánh”.

Khi họ tới phòng đợi, Townsend để mặc Kate làm thủ tục vào sân băng trong khi anh ra ngoài tìm chỗ gọi điện. Anh phải xếp hàng sau ba người để đợi nói chuyện ở chiếc máy điện thoại duy nhất có hoạt động. Khi cuối cùng đã đến lượt, anh quay số nhà riêng của Henry. Máy bận. Anh cố quay số ba lần nữa, nhưng ống nghe vẫn tiếp tục phát ra những tiếng tít tít đều đặn. Khi anh bắt đầu quay số Cao ủy Úc, tiếng loa chợt thông báo tất cả các hành khách còn lại cần rời khỏi chỗ, vì cửa sắp đóng. Số máy Cao ủy bắt đầu đổ chuông, Townsend đảo mắt nhìn quanh và thấy phòng đợi chẳng còn ai ngoài anh và Kate. Anh ra hiệu cho nàng đi ra máy bay.

Townsend để chuông reo một lát nữa, nhưng không có ai trả lời. Anh bỏ cuộc và đặt ống nghe về chỗ cũ, sau đó chạy ra đường băng và thấy Kate đang đợi ở cửa máy bay. Khi họ vào trong, cửa máy bay liền đóng lại sau lưng họ.

“Ông có gặp may không?” Kate hỏi khi bắt đầu thắt dây an toàn.

“Không,” Townsend nói. “Máy của Henry luôn bận, còn ở chỗ Cao ủy thì chẳng có ai trả lời”.

Kate vẫn im lặng khi máy bay lướt trên đường băng. Khi nó bắt đầu dừng lại, nàng nói. “Trong khi ông gọi điện, tôi đã nghĩ. Điều này không phải là tình cờ”.

Máy bay bắt đầu tăng tốc lướt dọc đường băng trong khi Townsend vội thắt dây an toàn.

“Cô muốn ám chỉ điều gì?”

“Một giờ trước”, Kate nói

“Tôi chẳng hiểu cô đang nói về chuyện gì”

“Vâng, hãy bắt đầu từ chiếc vé của tôi”.

“Vé của cô làm sao” Keith không hiểu.

“Vâng. Làm sao Qantas biết được tên tôi để ghi vào đó”

“Tôi cho là Cao ủy đã nói cho họ”

“Nhưng làm sao ông ấy có thể nói được?” Kate vặn. “Khi gửi cho ông giấy mời dự ăn tối, ông ấy đã không ghi tên tôi, vì không hề biết là tôi đi cùng ông”.

“Anh ta có thể hỏi người quản lý khách sạn”.

“Cũng có thể. Nhưng vẫn còn điều gì đó khiến tôi băn khoăn”.

“Điều gì vậy?”

“Người trực tầng biết đích xác ông ngồi bàn nào”.

“Vậy thì sao”.

“ Ông ngồi đối diện với tôi ở trong góc phòng nhìn ra cửa sổ, nhưng tôi chỉ ngẫu nhiên ngửng lên khi anh ta bước vào Palm Court. Tôi nghĩ thật lạ là anh ta lại biết đúng chỗ phải tới, mặc dù ông ngồi quay lưng về phía anh ta”.

“Anh ta có thể hỏi hầu bàn”.

“Không.” Kate nói. “Anh ta bước thẳng qua người hầu bàn, thậm chí chẳng buồn liếc nhìn người ấy nữa.”

“Cô định đi đến đâu?”

“Và điện thoại của Henry liên tục bận mặc dù lúc đó mới chỉ hơn 8 rưỡi sáng.” Máy bay bắt đầu rời mặt đất. “Và tại sao ông không thể gọi được cho ngài Cao ủy vào lúc 8 giờ 30 trong khi ông có thể làm được việc ấy lúc 7 giờ 20?”

Keith nhìn nàng chằm chằm.

“Chúng ta đã phải bay đi bởi có ai đó muốn ông không đến được Leeds vào lúc 12 giờ để ký hợp đồng.”

Keith tháo dây an toàn, chạy ra lối đi và xông vào buồng lái trước khi một chiêu đãi viên ngăn anh lại. Người trưởng phi hành đoàn nghe câu chuyện của anh một cách thông cảm, nhưng chỉ cho anh thấy ông ta chẳng thể làm gì được vì máy bay đang trên đường tới Bombay.

oOo

“Chuvến bay 009 đã bay đi Melbourne cùng hai vị khách của chúng ta”. Benson gọi điện về từ sân bay. “Họ sẽ ở trên không trung ít nhất là mười bốn tiếng nữa”

“Tốt lắm, Reg”. Armstrong nói. “Bây giờ hãy quay trở lại Ritz. Sally đã đặt sẵn phòng mà Townsend đã ở, vậy hãy đợi điện thoại của Wolstenholme ở đó. Tôi đoán anh ta sẽ gọi điện ngay sau mười hai giờ. Bởi sau đó tôi đã tới khách sạn Queen, và tôi sẽ cho cậu biết số phòng”.

Keith ngồi xuống ghế của mình trên máy bay, anh đấm lên chỗ để tay. “Chúng là ai, và làm sao chúng biết việc này?”

Kate gần như đã rõ kẻ ấy là ai và bằng cách nào hắn biết việc này.

Ba giờ sau, một cuộc điện thoại được gọi tới khách sạn Ritz cho ngài Keith Townsend. Nhân viên tổng đài đã theo lời dặn ban sáng của một quý ông vô cùng hào phóng nối máy cho phòng 319, ở đó Benson đang ngồi trên giường.

“Có phải Keith đó không?” Một giọng lo lắng hỏi.

“Xin cho biết ai đang gọi đấy?”

“Henry Wolstenholme,” người kia nói.

“Xin chào ngài Wolstenholme. Ngài Townsend đã cố gọi cho ngài buổi sáng nay, nhưng đường dây của ngài liên tục bận”.

“Tôi biết, có ai đó đã gọi cho tôi suốt quãng 7 giờ, nhưng là nhầm máy. Sau đó tôi đã thử gọi, nhưng đường dây mất tín hiệu. Nhưng Keith đâu?”

“Ông ấy đang bay về Melbourne. Mẹ ông ấy bị đau tim và ngài Cao ủy đã thu xếp đặt vé cho ông ấy”.

“Tôi rất buồn khi nghe tin về mẹ của Keith, nhưng tôi lo rằng ông Shuttleworth có thể không muốn duy trì hợp đồng nữa. Rất khó bắt ông ấy gặp lại chúng ta sau những chuyện này”.

Benson đọc lại chính xác những từ Armstrong đã ghi trước mặt anh: “Ngài Townsend dặn tôi rằng ông ấy đã cử một người đại diện tới Leeds với đủ quyền ký mọi bản hợp đồng, chừng nào ông không phản đối “.

“Tôi không phản đối,” Wolstenholme nói. “Chừng nào anh ta sẽ tới”.

“Hiện có lẽ ông ấy đang ở khách sạn Queen. Ông ấy đi Leeds ngay sau khi ngài Townsend khởi hành tới sân bay Heathrow. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu hiện giờ ông ấy đang ở khách sạn tìm ngài.”

“Tốt hơn là bây giờ tôi xuống phòng đợi và xem xem liệu tôi có thể tìm thấy anh ta không,” Wolstenholme nói.

“Tiện thể,” Benson nói, “kế toán của chúng tôi muốn kiểm tra lại con số cuối cùng – 120 000 bảng”

“Cộng với mọi phí tổn pháp luật,” Wolstenholme nói.

” Cộng với mọi phí tổn pháp luật,” Benson lặp lại. “Tôi sẽ không giữ ngài lâu nữa, ngài Wolstenholme.” Anh đặt máy.

Wolstenholme rời Phòng Hồng bạch và đi xuống bằng thang máy, tin chắc rằng nếu luật sư của Keith có dự thảo tổng số tiền, anh vẫn có thể thu xếp mọi chuyện trước khi Shuttleworth tới. Chỉ có một vấn đề duy nhất: anh chẳng có khái niệm gì về người anh đang tìm.

Benson yêu cầu tổng đài nối máy cho anh tới một số máy ở Leeds. Khi có tiếng trả lời, anh đề nghị được nói chuyện với phòng 217.

“Làm tốt lắm. Benson”, Armstrong nói sau khi anh xác nhận con số 120.000 bảng.”Bây giờ thì hãy trả phòng, thanh toán hóa đơn bằng tiền mặt và nghỉ nốt ngày hôm nay”.

Armstrong rời phòng 217 và đi thang máy xuống tầng trệt. Khi bước vào phòng đợi anh nhìn thấy Hallet đang nói chuyện với người đàn ông mà anh đã thấy ở Savoy. Anh tiến thẳng đến chỗ họ. “Chào ông,” anh nói. “Tên tôi là Richard Armstrong, và đây là luật sư của công ty. Tôi nghĩ ông đang đợi chúng tôi”.

Wolstenholme nhìn Armstrong chằm chằm. Anh có thể thề rằng trước đây đã gặp người này ở đâu đó. “Vâng, tôi đã đặt trước Phòng Hồng bạch vì vậy chúng ta sẽ không bị lúng túng.”

Hai người gật đầu và đi theo anh. “Có tin xấu về mẹ của Keith,” Wolstenholme nói khi họ bước vào sảnh.

“Vâng, có lẽ vậy?” Armstrong nói, thận trọng không nói thêm bất cứ điều gì để họ có thể đổ trách nhiệm cho anh về sau.

Khi tất cả đã ngồi xuống xung quanh chiếc bàn họp trong Phòng Hồng bạch, Armstrong cùng Hallet rà soát chi tiết bản hợp đồng, trong khi Wolstenholme ngồi trong góc nhấm nháp li cà phê. Anh ngạc nhiên thấy họ xem xét kỹ lưỡng từng chi tiết của bản dự thảo cuối cùng trong khi Keith chính là người đã phê chuẩn nó, nhưng anh cũng phải thừa nhận rằng nếu ở địa vị của họ, anh cũng sẽ làm như vậy. Hết lần này đến lần khác Hallet nêu lên những câu hỏi mà sau đó luôn được trao đổi kín đáo với Armstrong. Một giờ sau họ trả lại bản hợp đồng cho Wolstenholme xác nhận rằng mọi điều đều đúng với yêu cầu.

Wolstenhome đang sắp hỏi một số câu về anh ta thì một người đàn ông tuổi trung niên, mặc chiếc áo có từ hồi trước chiến tranh, giờ đã lỗi mốt, lê bước vào. Wolstenholme giới thiệu John Shuttleworth đang mỉm cười ngượng ngập. Sau khi bắt tay nhau Armstrong nói. “Chúng ta chẳng còn việc gì để làm ngoại trừ việc ký vào bản hợp đồng.”

John Shuttleworth gật đầu đồng ý. Armstrong lấy bút từ túi áo khoác ngoài và ký vào chỗ ngón tay run run của Stephen đang đặt vào. Anh chuyển bút cho Shuttleworth, ông ký vào giữa chỗ gạch chéo bằng bút chì mà không thốt lên lời nào. Sau đó Stephen chuyển 120 000 bảng cho Wolstenholme. Viên luật sư gật đầu khi Armstrong nhắc anh ta rằng vì đây là tiền mặt, có lẽ khôn ngoan hơn cả là nên gửi ngay vào ngân hàng.

“Tôi sẽ đi ít phút trong khi các ông ngồi vào bàn.” Wolstenholme nói.

Khi Wolstenholme quay lại, anh thấy Shuttleworth đang ngồi một mình ở bàn ăn. “Thế hai người kia đâu?” Anh hỏi.

“Họ đã xin lỗi không thể đợi để ăn trưa, họ phải quay về London.” Wolstenholme thấy khó hiểu. Còn một số câu anh muốn hỏi – và anh không biết phải gửi hóa đơn thanh toán đến đâu. Shuttleworth rót cho anh một cốc sâm pan và nói.”Xin chúc mừng, Henry. Anh không thể làm tốt hơn. Tôi phải nói rằng anh bạn Townsend của anh rõ ràng là một người năng động.”

“Không phải nghi ngờ về điều đó,” Wolstenhome nói.

“Và hào phóng nữa,” Shuttleworth nói.

“Hào phóng?”

“Đúng – có lẽ họ đã đi mà không chào tạm biệt, nhưng họ để lại hai chai sâm pan.”

Buổi tối, khi Wolstenholme về đến nhà, có điện thoại gọi. Anh nhấc máy và thấy Townsend ở đầu dây bên kia.

“Tôi rất tiếc vì chuyện của mẹ anh,” Henry cất lời.

“Mẹ tôi chẳng làm sao cả,” Townsend gằn giọng.

“Cái gì?” Henry nói. “Nhưng…”

“Tôi sẽ trở lại bằng chuyến bay gần nhất. Tôi sẽ tới Leeds vào chiều mai”.

“Không cần làm vậy đâu, ông bạn,” Henry nói, không ngạc nhiên lắm. “Shuttleworth đã ký rồi.”

“Nhưng hợp đồng vẫn cần chữ ký của tôi,” Townsend nói.

“Không, không cần. Người đại diện của anh đã ký mọi điều khoản thuộc phần anh,” Henry nói, “và tôi đảm bảo với anh rằng mọi thủ tục giấy tờ đều đúng theo yêu cầu.”

“Người đại diện của tôi?” Townsend đã hiểu ra.

“Phải, một ông Richard Armstrong nào đó. Tôi vừa gửi khoản tiền 120 000 bảng của anh ta vào ngân hàng ngay trước bữa trưa. Thực sự là anh chẳng cần phải quay lại làm gì. WRG giờ đã thuộc về anh.”

Townsend dập máy và quay người lại để nhìn Kate đang đứng sau lưng anh.”Tôi sẽ đi Sydney, nhưng tôi muốn cô quay lại London và tìm hiểu mọi điều về người đàn ông có tên là Richard Armstrong.”

“Vậy đó là tên của người đàn ông ngồi bàn cạnh chúng ta ở Savoy.”

“Có vẻ như vậy,” Townsend dằn từng từ.

“Và bây giờ ông ta là chủ tổ hợp West Riding?”

“Đúng vậy.”

” Ông không thể làm gì được sao?”

“Tôi có thể kiện anh ta vì tội mạo nhận, thậm chí về tội lừa đảo, nhưng việc ấy phải mất nhiều năm. Trong bất kỳ trường hợp nào, kẻ làm toàn bộ chuyện này đã chắc rằng hắn được luật pháp bảo vệ. Và còn một điều chắc chắn nữa là Shuttleworth sẽ không muốn làm nhân chứng trong bất cứ phiên tòa nào”.

Kate trầm tư. “Vậy thì tôi không thể tìm hiểu được nhiều trong chuyện quay lại London này. Tôi ngờ rằng cuộc chiến giữa ông và Richard Armstrong mới chỉ bắt đầu. Chúng ta có thể có một buổi tối thú vị ở Bombay,” nàng thú nhận. “Tôi chưa bao giờ tới Ấn Độ.”

Townsend nhìn nàng, nhưng không nói gì cho tới khi anh nhận ra một đại úy TWA đang đi về phía họ.

“Khách sạn nào là tốt nhất ở Bombay?” Anh hỏi anh ta.

Viên đại úy dừng lại. “Người ta bảo tôi rằng Grand Place là một nơi có thể ở được, nhưng thực tế bản thân tôi chưa bao giờ nghỉ ở đó,” anh ta đáp.

“Cảm ơn,” Townsend nói, và bắt đầu đẩy hành lý theo lối ra. Ngay khi họ bước ra khỏi phòng đợi của sân bay thì trời bắt đầu đổ mưa.

Townsend chất hành lý lên một chiếc taxi đợi sẵn mà anh cảm thấy chắc chắn là không được chấp nhận ở bất kỳ một thành phố nào khác. Khi anh vào xe theo sau Kate, họ bắt đầu chuyến hành trình dài tới Bombay. May mà một số đèn đường đang sáng, chiếc xe chẳng có đèn, cũng chẳng có cần gạt nước. Còn người lái xe thì hình như không biết cách vào số hai. Nhưng anh ta có thể xác nhận trong ít phút rằng Grand Place là “một nơi có thể ở được”.

Khi cuối cùng xe đã lướt trên đường dẫn vào khách sạn, một tiếng sấm vang lên trên đầu họ. Keith phải thừa nhận rằng toà nhà trắng lộng lẫy chắc chắn là rộng rãi và nguy nga, cho dù nhiều khách du lịch theo mùa có thể miễn cưỡng thêm vào đó từ “trưởng giả”.

“Hân hạnh được đón ông bà,” một người đàn ông mặc bộ đồng phục sẫm màu nói khi họ bước vào đại sảnh có nền lát đá cẩm thạch. “Tôi tên là Baht, quản lý ở đây. Phiền ông bà cho tôi biết tên để đăng ký phòng?”

“Chúng tôi không đặt phòng từ trước. Chúng tôi cần hai phòng,” Keith nói.

“Thật không may,” Baht nói, “vì tôi dám chắc là chúng tôi đã hết phòng cho đêm nay. Hãy để tôi xem lại.” Anh ta dẫn họ tới bàn đặt phòng và nói vài câu với người nhân viên ở đó. Người nhân viên lắc đầu. Baht đích thân xem lại danh sách đặt phòng và cuối cùng quay về phía họ.

“Tôi rất rất tiếc phải nói với ông bà rằng chúng tôi chỉ còn một phòng trống,” anh ta nói, chắp hai tay vào nhau, có lẽ hy vọng một phép màu để nó sẽ biến thành hai. “Và tôi sợ rằng…”

” Ông sợ….?” Keith nói.

“Đó là ở Phòng Hoàng gia, thưa ngài.”

“Thật thích hợp để nhớ lại những quan điểm của ông về nền quân chủ.” Kate nói, cố nhịn cười. “Trong phòng có ghế bành chứ?” Nàng hỏi.

“Có vài cái,” người quản lý ngạc nhiên nói, chưa bao giờ có ai hỏi anh ta một câu như vậy.

“Vậy thì chúng tôi lấy phòng đó,” Kate nói.

Baht vỗ tay và một nhân viên trong chiếc áo đồng phục dài màu đỏ, quần chẽn đỏ và chiếc khăn xếp màu đỏ vội vàng mang hành lí của họ đi trước.

“Dãy phòng rất đẹp,” anh ta nói khi đi trên chiếc cầu thang rộng. Kate bỗng cười phá lên. “Huân tước Mountbatten đã ngủ ở đây,” anh ta nói thêm với niềm kiêu hãnh rõ rệt,”và nhiều lãnh chúa. Rất đẹp.” Anh ta đặt hành lý xuống lối vào Phòng Hoàng gia, tra chiếc chìa khóa lớn vào ổ và đẩy tung hai cánh cửa, bật đèn và đứng tránh sang bên nhường chỗ cho họ vào.

Hai người bước vào căn phòng rộng mênh mông. Sát bức tường đối diện là một chiếc giường đôi rộng rãi, sang trọng, đủ chỗ cho nửa tá lãnh chúa ngủ. Và Keith chán ngán thấy rằng, đúng như Baht đã hứa, ở đây có nhiều chiếc ghế bành lớn.

“Chiếc giường đẹp,” người nhân viên nói, đặt hành lý của họ xuống giữa phòng. Keith đưa anh ta tờ một bảng. Người nhân viên cúi đầu, quay lại và đi khỏi phòng cùng lúc một tia chớp loé lên trên bầu trời và đèn đột nhiên phụt tắt.

” Ông định xử lý chuyện này thế nào?” Kate hỏi.

“Nếu cô nhìn ra ngoài cửa sổ, cô sẽ thấy rằng điều này được tiến hành bởi một quan chức cao hơn tôi rất nhiều.” Kate quay lại để nhìn cả thành phố nằm trong bóng tối.

“Vì vậy, hoặc chúng ta sẽ đứng nguyên đợi có điện, hoặc chúng ta sẽ tìm chỗ nào đó để ngồi?” Keith quờ tay trong bóng tối, và chạm vào hông Kate. ” Ông hãy dẫn đường đi,” nàng nói, nắm lấy tay anh. Anh bước những bước nhỏ về phía chiếc giường, tay kia sờ soạng phía trước cho tới khi cuối cùng va phải chiếc cột trong góc. Cùng lúc ấy họ cảm thấy chiếc nệm rộng và cười phá lên.

“Một chiếc giường đẹp,” Keith nói.

“Được nhiều lãnh chúa nằm,” Kate tiếp.

“Và được huân tước Mountbatten ngủ trên đó,” Keith nói thêm.

Kate cười. “Nhân thể, Keith, ông không phải mua cả công ty điện Bombay chỉ để đưa tôi lên giường. Tôi đã mất một tuần vừa qua cho ý nghĩ rằng ông là mối quan tâm duy nhất của tôi.”

Phần IV: Cuộc chiến của Armstrong và Townsend với tờ Globe


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.